JEONG, HAN, SHINBARAM: CẢM XÚC MỸ HỌC KOREA TRONG THƠ HWANG JIN YI VÀ NHỮNG LIÊN HỆ GẶP GỠ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG CỦA VIỆT NAM
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Jeong (tình), han (hận) và shinbaram (hoan ca) là những biểu hiện cảm xúc đặc thù sản sinh từ không gian đời sống tinh thần của người Korea. Theo thời gian, các phạm trù cảm xúc kể trên trở thành mỹ học thường thức về thế giới xung quanh. Bài viết đi vào phân tích tính jeong, han và shinbaram hiện diện trong thơ Hwang Jin Yi như những tầng bậc tự sự của cái tôi trữ tình đứng trước quá trình giao kết với cuộc sống và tự nhiên, cụ thể là thái độ trước thiên nhiên cảnh vật và trong địa hạt ái tình. Đồng thời, nhìn rộng ra, dựa trên những yếu tố khu vực, sự giao lưu tiếp biến văn hoá-văn học Đông Á, chúng tôi nhận thấy, trong thơ Hồ Xuân Hương (Việt Nam) cũng có những dấu hiệu tương cận với ba hình thái xúc cảm Korea, nhưng nữ sĩ đã biểu đạt chúng với một quan niệm khác, có tính “gây hấn” hơn rất nhiều, góp vào thi đàn thơ ca Việt Nam cổ điển một giọng thơ tình tứ nhưng sắc bén, trào lộng. Qua những phân tích, đối chiếu các phương diện cảm xúc được biểu đạt trong thơ của hai kỳ nữ được xem là một trong số những gương mặt sáng giá của thơ ca Đông Á, phần nào sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được bề sâu của giới nữ, ý thức nữ quyền khi nhìn đối trọng với nam giới và hiểu rõ vì sao thơ các nàng vẫn là những khúc thanh âm vọng mãi đến hôm nay.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Jeong, han , shinbaram, Văn học cổ điển Korea, Văn học cổ điển Việt Nam, Hwang Jin Yi, Hồ Xuân Hương, cảm xúc mỹ học.
Tài liệu tham khảo
Bleiker, Roland & Young-ju, Hoang (2011), Korean Sources of Conflict Resolution (An Inquiry into the Concept of Han), Chapter 12; pg.248-269.
Hwang Jini et al (1997), Songs of the Kisaeng: Courtesan poetry of the last korean dynasty, (Translated by Constantine contogenis and Choe Wol-Hee), New York BAO Editions.
Christopher K. Chung & Samson J. Cho (2006), Conceptualization of Jeong and Dynamics of Hwabyung, Psychiatry Investigation; 3(1): 46-54.
dward Y. J. Chung & Jea Sophia Oh (2022), Emotions in Korean Philosophy and Religion – confucian, Comparative, and Contemporary Perspectives, Palgrave macmillan.
Joo Young-ha (2017), Sự lý thú của Hàn Quốc học - Hai mươi hai trí thức tiêu biểu của Hàn Quốc nói về Đất nước - Con người và những đặc điểm Hàn Quốc nhất, (Nguyễn Thị Thu Vân dịch), NXB Hội nhà văn.
Phan Thị Thu Hiền (2014), Những kỳ nữ trong thơ ca Đông Á (Trung Quốc – Nhật Bản - Korea - Việt Nam), NXB Văn hoá - Văn nghệ.
Phan Thị Thu Hiền (2017a), Dạo bước vườn văn Hàn Quốc, NXB Khoa học Xã hội.
Phan Thị Thu Hiền (2017b), Văn học cổ điển Hàn Quốc - tiến trình và bản sắc, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Keith Lehrer (1995), Emotion in Aesthetics, published by Kluwer Academic.
Kyong Yoon (2016), The Local Sociality and Emotion of Jeong in Koreans’ Media Parctices, nguồn: www.researchgate.net.
Hoàng Phê (2020), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
Daniel Tudor (2022), Hàn Quốc: Quốc gia gây sững sờ (Korea: The impossible country), (Lê Thị Trúc Quỳnh dịch), NXB Thế giới.
Youngmin Kwon & Bruce Fulton (2020), What is Korean Literature?, Korea Research Monograph 37.
Lữ Huy Nguyên (2008), Hồ Xuân Hương thơ & đời (tuyển chọn giới thiệu), NXB Văn học.
Margareth Theresia & An Younghoon (2015), Gisaeng Life Portrayed on ‘Blue Stream’ Sijo by Hwang Jini, nguồn https://www.academia.edu/27610577/Gisaeng_Life_Portrayed_on_Blue_Stream_Sijo_by_Hwang_Jini